Vài kỷ niệm với 112.
Vài ba năm về trước, một lần tôi đi theo đoàn chuyên gia quốc tế đi thăm một số tỉnh và thành phố về ứng dụng Công nghệ Thông tin (CNTT) của Việt nam. Vào một buổi chiều hè oi ả, đoàn công tác chúng tôi gặp Ban Chủ trì đề án 112 và được gửi một báo cáo viết sẵn rất lạc quan với bao nhiêu máy chủ đã cài và bao nhiêu máy tính nối mạng. Người tiếp với giọng ngái ngủ và thỉnh thoảng lại bấm điện thoại di động gọi đi đâu đó với những câu chuyện lạc đề. Khi được hỏi những ứng dụng nào được chạy trên đó và ai là người dùng thì được những câu trả lời không rõ ràng.
Khi đi thực tế, tôi thấy rất nhiều nơi có máy tính được nối mạng đàng hoàng. Theo cán bộ phụ trách báo cáo thì đó là các máy tính của Đề án 112 hoặc do kinh phí của địa phương theo yêu cầu của Ban Chỉ đạo quốc gia về CNTT. Nhiều phòng máy tính vài chục cái với bàn phím bụi bám có vẻ đã lâu ngày không ai đụng đến. Vào các cơ quan đang làm việc, đôi người đang dùng Excel hay Word, còn lại phần đông các cửa sổ đang mở để chơi trò chơi hoặc chatting với Yahoo Messenger với các nick name mà tôi đoán không liên quan gì đến hoạt động của văn phòng. Việt nam một ngày không có Yahoo Messenger như động đất đủ biết máy tính dùng trong cơ quan Việt nam tác dụng như thế nào.
Thật ra, Đề án 112 đã được dự báo thất bại từ những năm trước. Một trong những thống kê khắc nghiệt chỉ ra rằng 70% các dự án Công nghệ Thông tin (CNTT) trên thế giới bị thất bại. Như vậy, Đề án 112 nằm trong số đông đó. Điều đó giúp cho những người phụ trách 112 vào trại giam có thể tự an ủi đôi chút là “ta có khác người đâu”. Nếu thực sự số tiền là hàng nghìn tỷ cho Đề án 112 để chi cho các máy tính “nằm đắp chăn, phần mềm tậm tịt” và cách đào tạo tin học như đi dạy bổ túc những năm 60 của thế kỷ trước thì chua xót biết bao đối với một nước nghèo như Việt nam.
Lý do các dự án CNTT thất bại là do trình độ và tầm nhìn vĩ mô của người thiết kế dự án chưa đủ để nhìn thấu suốt một dự án từ đầu đến cuối. Người thiết kế dự án CNTT hầu hết là các nhà hàn lâm khoa học chuyên về công nghệ thông tin nhưng không hiểu biết thấu đáo về hoạt động giao dịch của các dịch vụ cần được tin học hóa. Phía khách hàng không muốn bỏ thời gian để tìm hiểu kỹ tin học sẽ làm được gì và có những hạn chế nào.Anh kỹ sư tin học chỉ nhìn thấy tiền khi anh ta bán được máy tính, máy in, phần mềm và các dịch vụ hậu mãi. Khách hàng thì hy vọng máy tính sẽ giúp họ làm hết mọi việc vì “máy tính điện tử cơ mà” nên phó mặc cho “anh Tin học muốn làm gì thì làm”. Thế là mục đích không gặp nhau, dự án thất bại là đương nhiên.
Chúng ta xây dựng Đề án 112 với mong muốn mở đầu cho một chính phủ điện tử (CPĐT) vì muốn coi đó là tiêu chí đánh giá tính minh bạch của bộ máy Nhà nước, tiết kiệm thời gian cho các giao dịch, khả năng thu hẹp khoảng cách giữa người dân và Chính phủ. Đó chính là một trong những động lực giúp cho sự tiến bộ kinh tế và xã hội.
Chìa khóa cho Chính phủ Điện tử thành công
Chúng ta phải hiểu Chính phủ Điện tử là đề án liên quan đến hành chính công (public administration) chứ không phải là đề án Công nghệ Thông tin (ICT). Để cho Đề án tầm cỡ hàng nghìn tỷ như Đề án 112 thành công thì điểm xuất phát không phải là mua bao nhiêu máy tính, cài bao nhiêu máy chủ hay phần mềm thông minh và tiêu bao nhiêu tỷ mà điều cốt tử là việc cải cách hành chính công của các cơ quan Nhà nước phải được nghĩ đến đầu tiên. Bộ máy công quyền có thực sự coi người dân là khách hàng, là Thượng đế hay không?
Khi họ thực sự coi trọng tính minh bạch trong chính phủ, có nhu cầu cao trong việc cung cấp các dịch vụ đến người dân (G2C – Government to Citizen), gửi các chính sách tới các nhà đầu tư, sản xuất kịp thời (G2B – Government to Business), cần trao đổi thông tin nhanh chóng và chính xác giữa các bộ ngành để giúp cho bộ máy chính phủ hoạt động (G2G – Government to Government) thì lúc đó mới tính đến việc thiết kế Chính phủ Điện tử. Quốc gia nào thực sự coi chống tham nhũng như là quốc sách thì Chính phủ Điện tử là sự cứu cánh cho họ, giúp giảm thiểu tham nhũng và thói hạch sách trong bộ máy công quyền.
Như vậy, để có đề án Chính phủ điện tử thành công thì chìa khóa nằm trong tay các nhà lãnh đạo Nhà nước. Họ có thực sự muốn cải tổ hành chính và hệ thống pháp luật, kể cả luật về giao dịch điện tử theo hướng chung của thời đại công nghệ thông tin không. Chúng ta không thể dựa vào quyết tâm của mấy tiến sỹ hàn lâm tin học hoặc các công ty tin học chỉ chuyên lo lợi nhuận nếu bán được máy tính. Một khi các nhà lãnh đạo đã quyết tâm thay đổi, đưa ra được chiến lược cải cách hành chính công của quốc gia thì phần việc còn lại sẽ do khả năng tài chính, cơ sơ hạ tầng công nghệ và các Bộ ngành và chuyên gia CNTT quyết định sẽ thiết kể CPĐT như thế nào.
Vài suy nghĩ cá nhân
Để đợi sự cải tổ hành chính quốc gia thành công chắc còn lâu lắm. Chúng ta đừng nên ôm đồm thiết kế những dự án quá lớn vì thất bại sẽ ảnh hưởng khôn lường. Những cảnh báo về thất bại của 112 về hệ thống và chiến lược ngay từ lúc trứng nước như góp ý của Giáo sư Phan Đình Diệu, Tiến sỹ Quang A, và sau này các góp ý về quản lý dự án của anh Lê Mạnh Hà cần được người lãnh đạo cao nhất xem xét một cách cẩn trọng. Nên dừng lại việc xây dựng dự án quốc gia chung chung, chẳng liên quan gì đến chiến lược về cải cách hành chính của Chính phủ. Xin một khoản lớn tiền của nhà nước đầu tư để rồi “có tiền nên có quyền” sẽ sinh ra chuyện “xin cho” giữa các địa phương và trung ương. Lãng phí và tham nhũng cũng từ đó mà ra.
Nhiều thành công của CPĐT trên thế giới lại bắt đầu bằng các ứng dụng thí điểm nhỏ, các bước cải tiến dần dần từ nhiều phía trong một vùng địa lý hẹp để chứng minh tác dụng lớn của việc cải cách hành chính song hành với ứng dụng CNTT. Trong các thành phố, tôi thấy thành phố Đà nẵng cỡ vừa, có lãnh đạo quyết tâm và đội ngũ tin học khá tin cậy lại đang được dự án ICT của Ngân hàng Thế giới tài trợ đáng được làm thí điểm một e-Government.
Trước đây có Ban chỉ đạo quốc gia về CNTT (năm 1995) với kinh phí hàng trăm tỷ, rồi đến Đề án 112 (năm 2001) hàng nghìn tỷ. Bộ Bưu chính Viễn thông đang phôi thai dự án CPĐT mới hàng chục ngàn tỷ. Những con số kinh phí tăng lên đáng sợ. Chúng ta có nên đi theo hướng này nữa hay không. Tôi chỉ mong có đề án mới, nhỏ hơn và ít ầm ỹ nhưng hiệu quả lớn hơn (small project – high impact) so với đề án “vài nghìn tỷ (big project – low impact) kiểu 112.
Những dự án Chính phủ Điện tử trên thế giới khó thành công phần lớn do bộ máy công quyền không muốn thay đổi. Đó chính là thách thức lớn nhất khi chuyển sang tự động hóa. Hoạt động của Chính phủ đã có hàng nhiều thập kỷ. Cán bộ nhà nước đã quen tiếp dân kiểu “quan-dân” nên khó thay đổi thành quan hệ “dịch vụ-khách hàng” trong khi mục đích của Chính phủ Điện tử nhằm biến quan hệ giữa Chính phủ và nhân dân thành quan hệ “Chính phủ=dịch vụ – nhân dân=khách hàng”. Để biến Chính phủ là “của dân, do dân và vì dân” hãy bắt đầu từ quan hệ Chính phủ coi nhân dân là khách hàng. Đó phải là cuộc cách mạng trong ý thức cán bộ Nhà nước. Các nước ứng dụng CPĐT thành công như Hoa Kỳ, Đan Mạch, Singapore hay Hàn Quốc đều theo tiêu chí này.
Ví dụ thành công Chính phủ Điện tử: Hiện nay, bảy triệu nông dân nghèo vùng Karnataka, Ấn độ, có thể nhận bản sao giấy “Quyền sử dụng đất” trên mạng trong vòng 10 phút ở 177 cửa hàng giao dịch Internet trong bang. Mỗi năm vài ba lần, họ cần bản sao điện tử “Quyền sử dụng đất” nhưng lại có giá trị pháp lý để dùng vay tiền Ngân hàng. Giá mỗi bản in trên mạng tương đương với khoảng 5.000VN đồng. Nếu theo hệ thống cũ thì cần 10-15 ngày và phải trả tiền phí và đút lót khoảng từ 100.000 đến 500.000VN đồng.
Nếu đem hệ thống này áp dụng cho các văn phòng cấp quyền sử dụng đất của Việt nam chắc sẽ bị hầu hết các cán bộ trong ngành phản đối vì còn “ăn cái đinh gì nữa?”.
Tôi là dân IT lập trình ít khi theo dõi chính trường, ai lên chức hay về vườn. Thấy ông nào “to to” bị công an bắt thì dù muốn hay không cũng ghé qua trang web xem là ai. Trước đây là Thứ trưởng Bộ Thương mại Mai Văn Dâu, sau đó là ông Nguyễn Việt Tiến Thứ trưởng Bộ Giao thông và mấy hôm nay là ông Vũ Đình Thuần, Chủ trì Đề án 112, tôi gặp đôi lần.
Đọc những tin ấy, tôi đau xót muốn rơi nước mắt, thương những nông dân nghèo nai lưng kéo cầy trên đồng, bán lúa đóng thuế và để rồi những đồng tiền mồ hôi nước mắt đó pha phí trong tham nhũng, hối lộ và những “dự án ngàn tỷ nhưng hiệu quả chục tỷ”. Mấy hôm nay lại rộ lên chuyện tăng học phí hay định chi 250 tỷ cho cuộc thi hoa hậu thế giới tại Việt Nam, tim tôi lại nhói đau vì biết bao em nhỏ con nhà nghèo không được đến trường, bao nhiêu lớp học không có bàn ghế và bao trường học không có nhà vệ sinh. Tôi cũng không muốn nước mắt người lập trình rơi lần nữa.
Hiệu Minh. Washington DC, 5-2007.
Theo Blog http://hieuminh.org/blog/nuoc-mat-nguoi-lap-trinh/
0 nhận xét:
Đăng nhận xét